Bác sĩ Alizabeth Kubler Ross, người tiền phong trong lãnh vực nghiên cứu
về hiện tượng hồi sinh cho biết: "Con người sợ chết như con nít sợ ma,
họ đã nhìn cái chết một cách sợ hãi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó vì
nó làm gián đoạn sự liên tục của đời sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận
sự chết một cách bình thản, giản dị thì họ sẽ thấy chết là một sự kiện
tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy. Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta,
sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn. Lá cây rụng để nhường chỗ cho
những mầm non xuất hiện, hết mùa đông lại có mùa xuân. Một hiện tượng
tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ý nghĩa
thâm sâu nào đó? Phải chăng chính vì có sự chết mà sự sống hiện hữu, có
sự xây dựng thì cũng phải có sự hủy diệt, đâu có gì tồn tại vĩnh viễn.
Người ta không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không
chịu chấp nhận sự chết, và đã đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ
các sự kiện này chứ không thể chấp nhận những lý thuyết mơ hồ nào đó
được".
Sau đây là tài liệu được trích lại từ cuốn La revue spirite:
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ
và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực
tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được.
Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết vì thể xác chỉ
là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẳng qua chỉ là
sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi thể xác đã hư hoại thì trí
thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con
về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả
thật có một đời sống bên kia cửa tử. Cậu con trai Piere Desrives, cũng
là một y sĩ, đã nói: "Nếu đã chết, làm sao cha có thể liên lạc với con
được?" Bác sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: "Cha không tin có
một đời sống hay cõi giới nào ngoài đời sống này nhưng nếu sau khi chết
mà cha thấy được điều gì thì cha sẽ tìm đủ mọi cách để liên lạc với các
con". Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông vì bận việc nên
cũng không để ý gì đến buổi bàn luận đó nữa. Khoảng hai năm sau, một
nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu cơ chơi, bất ngờ cơ
bút đã viết: "Xin cho gọi bác sĩ Piere Desrives đến vì tôi là cha cậu
đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi". Ðược thông báo,
bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn
gọi các em đến tham dự buổi cơ bút này. Một người cầm giữ đầu một sợi
dây, đầu kia cột vào một cây bút chì và chỉ một lát sau cây bút đã tự
động chạy trên các trang giấy thành một bức thư như sau:
Các con thân mến,
Cha rất hài lòng đã gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm
nay, cha có ý trông đợi để kể cho các con về những điều ở cõi bên này
mà cha đã chứng kiến nhưng không có cơ hội.
Như các
con đã biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt
mõi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay
biết gì nữa. Một lúc sau cha thấy mình đang lơ lửng trong một bầu ánh
sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rõ cảm tưởng của cha
khi đó, nhưng không hiểu sao cha thấy trong mình dễ chịu, linh hoạt,
thoải mái chứ không bị gò bó, ràng buộc như trước. Các con biết cha bị
phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy mình có thể đi
đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách
thoải mái, không đau đớn gì. Ðang vẫy vùng trong biển ánh sáng đó thì
bất chợt cha nhìn thấy cái thân thể của cha đang nằm bất động trên
giường. Cha thấy rõ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía
trên thân thể của cha có một hình thể lờ mờ trông như một lùm mây màu
xám đang lơ lửng. Cả gia đình đều đang xúc động và không hiểu sao cha
cứ thấy trong mình buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai
trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết
và tự nhiên cha ý thức rằng mình đã chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng
may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha
thấy mình bình tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái cảm giác được đắm chìm
trong những lời cầu nguyện này thật vô cùng thoải mái dễ chịu không thể
tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả
một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rõ
rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết
nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rõ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao
giờ hết, cha ý thức tường tận các hành vi của mình, các điều tốt lành,
hữu ích mà cha đã làm cũng như các điều xấu xa, vô ích mà cha không
tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đã làm và
hối tiếc về những điều mà đáng lẽ ra cha không nên làm. Cả một cuốn
phim đời hiện ra một cách rõ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp
đi như người buồn ngủ.
Cha ở trong tình trạng vật vờ,
nửa ngủ nửa thức này một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy thì thấy mình
vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắc rất lạ không giống như
màu ánh sáng lần trước. Cha thấy mình có thể di chuyển một cách nhanh
chóng, có lẽ vì không còn xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người
đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ thì cha lại có cảm
giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ
họp. Những người này có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi
thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biết tùy theo các rung động
thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cõi bên này. Sở
dĩ cha không thể tiếp xúc với một số người vì họ có sự rung động khác
với "tần số rung động" (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách
khoa học này làm cha tạm hài lòng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cõi
bên này tần số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ
lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài
sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy
sâu tùy theo sức ép của nước thì ở cõi bên này, tùy theo tần số rung
động mà người ta có thể tìm đến được các cảnh giới khác nhau. Sự kiện
này làm cha cảm thấy vô cùng thích thú vì như vậy quả có một cõi giới
bên kia cửa tử và cõi này lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa.
Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đàng hay địa
ngục nhưng hiện nay cha thấy quan niệm này có thể được giải thích một
cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động này
như thế nào? Tại sao cha lại có những tần số rung động hợp với một số
người? Người nọ giải thích rằng tùy theo tình cảm của con người mà họ
có những sự rung động khác nhau; người có tình thương cao cả khác với
những người tính tình nhỏ mọn, ích kỷ hay những người hung ác, không hề
biết thương yêu. Ðây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ
đến. Cha bèn đặc câu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa
học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, thì người nọ
trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cõi
bên này cả. Ðiều này làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho
biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tát chẳng qua chỉ
là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên này ai cũng
có thể học hỏi được. Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con
người biết làm gì với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay
tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử
dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha
có vẻ thất vọng, người này bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có
lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao
giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những
thời đại xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước tới
nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy
cái kiến thức mà mình vẫn hãnh diện thật ra chẳng đáng kể gì so với kho
tàng kiến thức nơi đây. Ðến khi đó cha mới thấm thía điều người kia nói
về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ý thức về tần số rung
động của mình.
Nơi cha đang sống có rất đông người,
đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi còn sống ở thế gian. Có người
hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người
điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đây không khác cõi trần
bao nhiêu; cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn; có những vườn hoa mỹ lệ
với đủ các loại hoa nhiều màu sắc; có những ngọn núi rất cao hay sông
hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật này dường
như luôn luôn thay đổi, nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do
sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Ðiều này có thể giải
thích giống như sự tưởng tượng ở cõi trần. Các con có thể tưởng tượng
ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc mình, nhưng ở cõi trần sức mạnh này rất
yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc mà thôi. Bên này vì có những
rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia
tăng thêm sức mạnh khiến cho những hình ảnh này có thể được thực hiện
một cách rõ ràng, chính xác và lâu bền hơn.
Các con
đừng nghĩ rằng những người bên này chỉ suốt ngày rong chơi, tạo ra các
hình ảnh theo ý muốn của họ; mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các
công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh. Vì mọi tư tưởng bên này
đều tạo ra các hình ảnh nên đây là môi trường rất thích hợp để người ta
có thể kiểm soát, ý thức rõ rệt hơn về tư tưởng của mình. Vì đời sống
bên này không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời giờ theo
đuổi những công việc hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, có
kẻ theo đuổi các nghành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn
chương thơ phú v.v.... Tóm lại, đây là môi trường để họ học hỏi, trau
dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang
học hỏi trong một phòng thí nghiệm khoa học để sau này có thể giúp ích
cho nhân loại. Càng học hỏi, cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của
cha không có gì đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi
thật ra không lấy gì làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so
với điều cha được biết nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo
khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát
triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng vì thế mà thay đổi.
Có những giá trị mà thời trước là "khuôn vàng thước ngọc" thì đời sau
lại bị coi là "cổ hủ, lỗi thời"; và như cha được biết thì những điều mà
ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đào thải.
Tuy nhiên cái tình thương, cái ý tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật
thì bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản
quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ
có những gì có thể tồn tại được với thời gian mà không thay đổi thì mới
đáng được gọi là chân lý. Cha mong các con hãy suy ngẫm về vấn đề này,
xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo
đó, thay vì theo đuổi nhũng giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.
Cha biết rằng mọi ý nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những
rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta như một cuốn sổ. Dĩ nhiên
khi sống ở cõi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền
của kiếp nhân sinh, không ý thức gì đến nó nên nó khép kín lại; nhưng
khi bước qua cõi bên này thì nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bày
rõ rệt trước mắt. Nhờ vậy mà cha biết rõ rằng hạnh phúc hay khổ đau
cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong mình. Cuốn sổ lưu trữ này
là bằng chứng cụ thể của những đời sống đã qua và chính nó kiểm soát
tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân
thích hợp với những cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cõi
giới bên này. Do đó, muốn được thoải mái ở cõi bên này, các con phải
biết chuẩn bị. Cha mong các con hãy bắt tay vào việc này ngay. Các con
hãy rán làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm
bất cứ việc gì, các con hãy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào,
liệu nó có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Ðừng quá bận rộn
suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hãy tập quên mình. Ðời người rất
ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu.
Khi còn
sống, đã có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền
bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng
khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng mình đã lầm. Một khi qua đến bên
đây, các con không thể mang nhũng thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị,
tài sản vất chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay
đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có tình thương mới
là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo mình qua cõi giới bên
này một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. Tình thương giống như
đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thực sự, để họ tiến lại
gần nhau, kế hợp với nhau. Nó là một mãnh lực bất diệt, mạnh mẽ,
trường tồn và chính nhờ lòng thương này mà người ta có thể tìm gặp lại
nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng
người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đã trở nên mềm yếu chăng?
Này các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên này, các
con mới thực sự kinh nghiệm được trạng huống của mình, tốt hay xấu, hạnh
phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thanh cao tốt lành hay những
nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha
học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật
huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lý trật tự và điều hòa hằng hiện hữu
trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm
tối u minh đều do những tần số rung động của mình mà ra cả và chính
mình phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình hay lựa chọn những nơi
mà mình sẽ đến.
Khi còn sống cha tin rằng chết là
hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện
nay cha biết mình đã lầm. Cha không biết phân biệt phần xác thân và
phần tâm linh. Sự chết chỉ đến với phần thân xác trong khi phần tâm
linh vẫn hoạt động không ngừng. Nó đã hoạt động như thế từ thuở nào rồi
và sẽ còn tiếp tục mãi mãi. Hiển nhiên các nhân của cha không phải là
cái thể xác đã bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt
động này, do đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà
cha đã hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như
một giòng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi này qua nơi khác, từ hình
thức này qua hình thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác
nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau; và tùy theo sự học
hỏi, kinh nghiệm mà nó ý thức được bản chất thiêng liêng thực sực của
nó. Cũng như sống biển có đợt cao, đợt thấp thì đời người cũng có những
lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng
nếu biết nhìn lại toàn vẹn tiến trình của sự sống thì kiếp người có khác
chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu! Chỉ khi nào
biết nhận thức về bản chất thật sự của mình vốn là nước chứ không phải
là sóng thì các con sẽ ý thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ
đó các con sẽ có một quan niệm rõ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến
tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải
một cái gì ghê gớm như người ta thường sợ hãi. Ðiều cần thiết không
phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một
sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung vì nếu khi còn
sống các con đã đem hết khả năng và phương tiện của mình để giúp đời, để
yêu thương mọi loài thì lúc lâm chung, các con chẳng có gì phải luyến
tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, cha muốn
nói thêm rằng hiện nay cha đang sống một cách thoải mái, vui vẻ và an
lạc chứ không hề khổ sở.